TS-BS nội tiết Michael Tuttle của Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering tại New York (Mỹ) cảnh báo nếu nhận thấy bất kỳ dấu hiệu hoặc bất cứ điều gì bất thường ở cổ, không nên bỏ qua. Dưới đây là 4 dấu hiệu của ung thư tuyến giáp:
Khối u trong cổ
Nam giới thường sẽ tìm thấy khối u khi cạo râu, còn phụ nữ có thể nhận thấy khối u khi trang điểm. GS-TS Robert Smallridge tại Mayo Clinic ở Jacksonville, Florida (Mỹ) cho biết khoảng 90% nhân giáp là lành tính. Thông thường, khối u lành tính sẽ di chuyển lên xuống khi nuốt, trong khi đó hầu hết các khối u ác tính không di chuyển khi nuốt.
Khàn giọng
Các dây thần kinh thanh quản kiểm soát các cơ mở và đóng dây thanh âm, nằm ngay phía sau tuyến giáp. Trong những trường hợp hiếm hoi, khối u, cụ thể là khối u ung thư có thể lan rộng ra ngoài tuyến giáp làm tổn thương dây thần kinh này và ảnh hưởng tới hộp thanh âm. Phần lớn bệnh nhân đều mô tả là bị khàn giọng, TS Smallridge nói. Hầu hết bệnh nhân đều cho biết bị khàn giọng.
Ho mạn tính
Một tỉ lệ nhỏ những người bị ung thư tuyến giáp bị ho mà không có bất cứ triệu chứng đặc biệt nào liên quan tới viêm. Ho do ung thư tuyến giáp không lây nhiễm, khiến người bệnh cảm thấy bối rối vì thấy mình ho không kèm theo sốt cũng không có đờm.
Khó nuốt
Khối u tuyến giáp phình to có thể chèn ép lên khí quản làm cho người bệnh bị khó thở. Ngoài ra, thực quản cũng nằm ngay dưới khí quản, vì vậy khối u tuyến giáp cũng có thể chèn ép trực tiếp hoặc gián tiếp lên thực quản khiến người bệnh cảm thấy khó nuốt hoặc đau nghẹn khi nuốt, bác sĩ Tuttle cho biết.
Ung thư tuyến giáp là bệnh khá phổ biến có thể bắt gặp ở bất cứ ai, nhưng thường gặp nhất là ở những phụ nữ trên 30 tuổi. Khi bệnh ở giai đoạn đầu nếu được phát hiện và điều trị sớm có thể chữa khỏi hoàn toàn. Do đó, khi thấy xuất hiện một trong các dấu hiệu ung thư tuyến giáp trên, không được phép chủ quan, hãy đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt để được thăm khám và chữa trị.Ngọc Khuê

Tham khảo thêm bệnh Ung thư Tuyến Giáp
Chẩn đoán ung thư tuyến giáp
“Hạt giáp” là một khối u trong tuyến giáp được sờ thấy hoặc chỉ phát hiện qua siêu âm tuyến giáp với hình ảnh khác biệt mô tuyến giáp bình thường xung quanh. Để phát hiện các “hạt giáp”, bác sĩ khám lâm sàng và đánh giá các tính chất của các hạt giáp này, cụ thể khảo sát có hạch cổ đi kèm hay không, khai thác tiền sử và diễn tiến của bệnh.
Sau đó, người bệnh được chỉ định siêu âm màu tuyến giáp nhằm đánh giá tính chất, số lượng “hạt giáp” và phát hiện hạch cổ bất thường. Khi siêu âm nếu phát hiện một hoặc nhiều “hạt giáp” thì có khả năng mắc ung thư tuyến giáp với tỷ lệ chung là 4-6,5%.
Kế tiếp để phân loại các nhóm nguyên nhân gây bệnh, người bệnh được cho đi lấy máu xét nghiệm nhằm đo nồng độ TSH. Cuối cùng, người bệnh cần làm xét nghiệm “chọc hút tế bào bằng kim nhỏ” (FNA) để xác định chẩn đoán ung thư tuyến giáp.
Cách thực hiện FNA
Dưới hướng dẫn của siêu âm, bác sĩ dùng một xilanh gắn với kim dài rất nhỏ hút các tế bào từ khối u ra và trải các tế bào này trên một tấm kính để quan sát dưới kính hiển vi. Khả năng chẩn đoán của FNA chính xác đến 95% nếu như lấy đủ mẫu và bác sĩ giải phẫu bệnh có kinh nghiệm.
FNA được chỉ định cho tất cả các trường hợp “hạt giáp” được sờ thấy qua thăm khám, “hạt giáp” có kích thước từ 1 cm trở lên qua siêu âm. Nếu hạt giáp có kích thước dưới 1 cm phát hiện qua siêu âm thì chỉ làm FNA khi có các đặc điểm nghi ngờ ác tính qua hình ảnh siêu âm như echo kém, dạng đặc, vi vôi hóa, bờ không đều… Không chỉ định FNA trong trường hợp nồng độ TSH trong máu giảm và xạ hình tuyến giáp là hạt nóng.
Đối tượng mắc “hạt giáp” có tỷ lệ ung thư tuyến giáp cao là tuổi nhỏ hơn 30 hoặc lớn hơn 60; có chiếu xạ vùng đầu cổ trước đó; trong gia đình có người mắc ung thư tuyến giáp.
Điều trị ung thư tuyến giáp
Khi kết quả FNA kết luận là ung thư hoặc nghi ngờ ung thư thì người bệnh sẽ được lên kế hoạch điều trị trong đó có phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp. Điều trị ung thư tuyến giáp là phương thức điều trị đa mô thức, tức là phải phối hợp nhiều phương thức điều trị với nhau để có kết quả tối ưu như:
- Phẫu thuật cắt tuyến giáp theo nguyên tắc ung thư học, có hoặc không kèm nạo hạch cổ.
- Xạ trị với i-ốt phóng xạ: Cho đồng vị phóng xạ i-ốt 131 vào cơ thể để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại.
- Nội tiết trị liệu trong nhiều năm để đè nén những tế bào ung thư còn sót lại nhằm giúp giảm tỷ lệ tái phát hay làm chậm lại thời gian tái phát.
Tùy thuộc vào kích thước của khối u, loại mô học, tình trạng di căn hạch cổ… mà cách thức phẫu thuật, trị liệu nội tiết sau mổ trên mỗi bệnh nhân khác nhau, chỉ định dùng i-ốt phóng xạ cũng khác nhau.
Sau phẫu thuật và điều trị i-ốt phóng xạ, người bệnh có một chế độ điều trị nội tiết và theo dõi chặt chẽ, dài hạn nhằm giảm tỷ lệ tái phát ở mức thấp nhất và đưa người bệnh trở lại cuộc sống với sức khỏe như một người bình thường.
Thạc sĩ, bác sĩ Huỳnh Thanh Hòa
Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn